Khai phá thị trường gần

Điểm khác biệt của các thị trường gần là không yêu cầu quá cao về tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng lại đặt nặng yếu tố giá cạnh tranh

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản 9 tháng đầu năm 2025 đạt 8,4 tỉ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Toàn ngành kỳ vọng cán mốc 10 tỉ USD trong năm nay, song điều đáng chú ý là động lực tăng trưởng lại không đến từ 2 thị trường truyền thống là Mỹ và EU, mà chủ yếu từ các thị trường gần, trong đó nổi bật là Trung Quốc và khu vực ASEAN.

Những con số bất ngờ

Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký VASEP, cho biết bước sang năm 2026, xuất khẩu thủy sản sang Mỹ có thể gặp khó do thuế đối ứng, thuế chống bán phá giá và rào cản kỹ thuật gia tăng. Các mặt hàng như cá ngừ, cá thu, ghẹ... có nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh. Trong khi đó, vấn đề thẻ vàng IUU ở thị trường EU vẫn chưa được tháo gỡ, khiến triển vọng tăng trưởng tại khu vực này chưa rõ ràng. Ngược lại, Trung Quốc đang nổi lên như thị trường lớn nhất của thủy sản Việt Nam nhờ vị trí địa lý gần và nhu cầu cao với các sản phẩm tươi sống như tôm hùm, tôm sú, cua biển - những mặt hàng được người tiêu dùng Trung Quốc ưa chuộng.

Cùng với đó, khối ASEAN, từng được xem là thị trường ngách, lại đang tăng trưởng tích cực, tạo cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều công ty bắt đầu nhận ra tiềm năng lớn ở các quốc gia lân cận nhưng vẫn còn thiếu chiến lược đầu tư bài bản.

Không chỉ thủy sản, ngành dệt may, lĩnh vực có giá trị xuất khẩu lớn thứ 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc, cũng đang chịu áp lực khi phụ thuộc quá nhiều vào 2 thị trường chính là Mỹ và EU. Ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu khắt khe về chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và quy tắc xuất xứ, doanh nghiệp còn cần chuyển hướng từ gia công sang thiết kế để nâng cao giá trị. Một số doanh nghiệp đã chọn hướng đi khác biệt bằng cách thâm nhập các thị trường gần, như câu chuyện của Công ty TNHH Routine Việt Nam tại Campuchia.

Khai phá thị trường gần - Ảnh 1.

Khách quốc tế tìm hiểu gian hàng sản phẩm GC FOOD. Ảnh: AN NA

Bà Lê Thị Minh Mẫn, đại diện Routine, cho biết doanh nghiệp này đã có mặt tại Campuchia gần 9 năm và vừa mở rộng lên 10 cửa hàng. "Khi bắt đầu, chúng tôi muốn đưa thương hiệu Việt ra nước ngoài nhưng nguồn lực có hạn. Campuchia là lựa chọn hợp lý vì sản phẩm của chúng tôi phù hợp vóc dáng người Á Đông, còn thị trường thời trang nội địa ở đó thì gần như bỏ ngỏ" - bà Mẫn chia sẻ.

Theo bà Mẫn, chìa khóa thành công khi khai phá thị trường mới là hiểu rõ thị hiếu và đồng hành với đối tác bản địa, bởi "không ai hiểu người tiêu dùng bằng chính họ".

Định hướng sắp tới, bà cho biết Routine sẽ hướng đến thị trường Thái Lan ở phân khúc ngách sau khi đã thử thị trường Nepal nhưng nhận thấy quy mô quá nhỏ.

Chủ yếu cạnh tranh về giá

Trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, Công ty CP Thực phẩm G.C (GC Food), chuyên sản xuất nha đam và thạch dừa, cũng đang chứng minh sức hút của các thị trường gần. Ông Nguyễn Văn Thứ, Chủ tịch HĐQT GC Food, cho biết doanh nghiệp đã định vị lại chiến lược, tập trung xuất khẩu sang các nước châu Á như Ấn Độ, Indonesia, Pakistan, Sri Lanka và Nepal. "Từ đầu năm đến nay, xuất khẩu sang nhóm thị trường này tăng hơn gấp đôi so với năm ngoái. Đây là những thị trường phù hợp với sản phẩm mang thương hiệu GC Food, không phải hàng gia công" - ông Thứ nói.

Theo ông, điểm khác biệt của các thị trường này là không yêu cầu quá cao về tiêu chuẩn kỹ thuật nhưng lại đặt nặng yếu tố giá cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp phải có quy mô sản xuất lớn và chi phí thấp mới có thể trụ vững. Ông cũng cảnh báo rủi ro trong thanh toán quốc tế, khi "nhiều đối tác không đáng tin cậy khiến doanh nghiệp Việt trở thành nạn nhân".

Để tránh rủi ro, GC Food áp dụng phương thức thanh toán an toàn: đối tác phải đặt cọc, phần còn lại thanh toán bằng L/C (thư tín dụng), đồng thời cử người sang trực tiếp đánh giá đối tác trước khi hợp tác.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả cũng đang tăng tốc khai thác các thị trường gần như Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và ASEAN. "Các khu vực này hiện chiếm hơn 80% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Ngoài ưu thế vận chuyển ngắn, ít rủi ro bảo quản, chúng ta còn được hưởng thuế nhập khẩu 0% hoặc rất thấp nhờ các hiệp định thương mại tự do" - ông Nguyên nói.

Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận các doanh nghiệp vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. "Ngay cả thị trường Trung Quốc, phần lớn hàng Việt mới chỉ xuất sang các tỉnh giáp biên, trong khi những khu vực xa hơn vẫn bỏ ngỏ. Thái Lan và Malaysia, dù là cường quốc sầu riêng, vẫn nhập hàng từ Việt Nam để bù mùa vụ, vì chúng ta có thể cung ứng quanh năm" - ông dẫn chứng.

Để tận dụng tốt hơn cơ hội, ông Nguyên đề nghị các cơ quan quản lý tăng cường đàm phán mở cửa thêm nhiều loại trái cây mới vào Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Bên cạnh đó, các tham tán thương mại cần cập nhật thường xuyên thông tin về mùa vụ, bởi các nước trong khu vực có thời vụ thu hoạch tương đồng, dễ cạnh tranh trực tiếp. "Thị trường gần vừa là bạn hàng vừa là đối thủ, nên chúng ta phải hiểu họ để đi trước một bước" - ông nói.

Cũng theo ông Nguyên, dù thuế suất nhập khẩu bằng 0, nhiều quốc gia vẫn áp dụng rào cản kỹ thuật nhằm bảo vệ sản xuất nội địa. Thực tế không ít mặt hàng của Việt Nam đã mất thị phần chỉ vì không đáp ứng được tiêu chuẩn mới. Vì vậy, doanh nghiệp cần chủ động nâng cao chất lượng, đáp ứng quy định an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và bao bì, nếu không muốn bị loại khỏi cuộc chơi. 

Cần một hệ sinh thái hậu cần chuyên biệt

Một yếu tố đặc biệt được nhấn mạnh trong khai thác thị trường gần là tiêu chuẩn Halal - điều kiện bắt buộc để tiếp cận các quốc gia có đông dân Hồi giáo như Malaysia, Indonesia, Ấn Độ. Để hàng Việt thâm nhập sâu hơn vào chuỗi tiêu thụ thực phẩm Halal toàn cầu, doanh nghiệp không chỉ cần chứng nhận sản phẩm mà còn phải bảo đảm toàn bộ chuỗi logistics - từ nguồn nguyên liệu, vận chuyển, kiểm soát vi sinh, đến lưu trữ lạnh - đều đạt chuẩn Halal. Điều này đòi hỏi một hệ sinh thái hậu cần chuyên biệt, được công nhận bởi các tổ chức quốc tế. Hiện nay, một số doanh nghiệp logistics Việt Nam đã đầu tư để đạt chứng nhận này, giúp các nhà xuất khẩu dễ dàng tiếp cận hơn với thị trường Halal trị giá hàng ngàn tỉ USD mỗi năm.


Link nội dung: https://tamnhindautu.vn/khai-pha-thi-truong-gan-a86943.html