Kiến An năm thứ 24 (219), tiếng hò reo ngoài thành Hán Trung chưa dứt. Lưu Bị nâng chén rượu, nhìn dãy Tần Lĩnh trùng điệp phía xa, trong mắt tràn đầy kỳ vọng. Từ một kẻ áo vải khởi binh ở Trác Quận đến khi chiếm Ích Châu, đoạt Hán Trung, xưng Hán Trung Vương, ông mất 25 năm đi hết con đường mà người khác khó đi trọn cả đời.
3 lần tự tay bỏ lỡ cơ hội của Lưu Bị

Lưu Bị từng có tới 3 cơ hội tái tạo nhà Hán. (Ảnh: Sohu)
Nhưng Lưu Bị không biết: ông từng có tới 3 cơ hội tái tạo nhà Hán. Từ lúc lóe sáng ở Thanh Châu, đặt nền móng ở Từ Châu, đến đỉnh cao sau Hán Trung, mỗi lần đều gần trong gang tấc, song cuối cùng vẫn lỡ nhịp. Nếu bánh xe vận mệnh xoay chuyển đi đôi chút, Lưu Bị có lẽ đã tái hiện truyền kỳ của Lưu Tú, để cờ Đại Hán một lần nữa tung bay khắp Trung Nguyên.
Trận Thanh Châu năm 192 — Bỏ lỡ "kịch bản Hà Bắc"
Năm 192, thiên hạ ở ngã ba biến động: đầu năm, Đổng Trác bị Lã Bố đâm chết, Trường An rối loạn; tháng 5, Lý Thôi, Quách Dĩ chiếm Trường An, bắt Hán Hiến Đế làm con tin; chư hầu Quan Đông chia cắt hỗn chiến. Lúc này chưa có bá chủ tuyệt đối: Viên Thiệu mới nhận Ký Châu, căn cơ chưa vững; Tào Tháo vừa làm Thái thú Đông Quận, chỉ giữ một quận; Lưu Biểu đơn thân vào Kinh Châu, còn bám các gia tộc hùng mạnh; Lưu Nghiêm giữ Ích Châu tuy cai trị một vùng, nhưng chỉ có thể giữ vững được vị thế ở phía tây nam.
Năm ấy Lưu Bị 31 tuổi, vừa tách khỏi sự kiểm soát của Công Tôn Toản, được phái đến Cao Đường (Thanh Châu), liên thủ Điền Khải và Đơn Kinh chống lại liên quân Viên Thiệu – Tào Tháo. Đối với Lưu Bị, đây là lần đầu ông độc lập cầm binh tranh một châu, đúng là một "cơ hội khởi nghiệp" do trời trao.

Đối với Lưu Bị, đây là lần đầu ông độc lập cầm binh tranh một châu, đúng là một "cơ hội khởi nghiệp" do trời trao. (Ảnh: Sohu)
Lưu Tú thuở xưa đơn độc vào Hà Bắc, cảnh ngộ còn khổ hơn, không binh không đất, lại bị Vương Lãng truy đuổi, nhưng nhờ tài quân sự, mưu chính trị, ông kết hợp hào cường Hà Bắc, rốt cuộc bình thiên hạ. Lưu Bị lúc này dựa lưng Công Tôn Toản, được Điền Khải chi viện, quân không nhiều nhưng có cửa phát triển thế lực ở Thanh Châu.
Thực tế, Lưu Bị không trụ nổi một hiệp. Trước liên quân Khúc Nghĩa của Viên Thiệu và Hạ Hầu Đôn của Tào Tháo, quân ông tan vỡ. Cao Đường thất thủ, phải ôm tàn binh chạy sang Từ Châu nương nhờ Đào Khiêm. Tam Quốc chí phần Tiên chủ truyện chỉ chép bốn chữ "bị địch đánh bại", nhưng ẩn sau là nhược điểm chí mạng: năng lực tác chiến của Lưu Bị kém xa nhãn lực dùng người của ông.

Nếu Lưu Bị có thể giữ được Cao Đường, liên minh với Điền Khải để kiềm chế quân địch rồi thừa cơ thu phục tàn quân Khăn Vàng còn lại ở Thanh Châu, có lẽ ông đã có thể thiết lập được một chỗ đứng vững chắc. (Ảnh: Sohu)
Cục diện khi ấy thực ra có lợi: Viên Thiệu và Công Tôn Toản đang giằng co ở Ký Châu; Tào Tháo bận dẹp tan tàn dư của Khởi nghĩa Khăn Vàng ở Duyện Châu khiến binh lực liên quân bị hạn chế. Nếu Lưu Bị có thể giữ được Cao Đường, liên minh với Điền Khải để kiềm chế quân địch rồi thừa cơ thu phục tàn quân Khăn Vàng còn lại ở Thanh Châu, có lẽ ông đã có thể thiết lập được một chỗ đứng vững chắc. Nhưng ông lại chọn đối công trực diện, bỏ lỡ thời cơ đầu tiên.
Sử gia Lã Tư Miễn từng nhận định: "Thất bại của Lưu Bị không phải do thiếu quân, mà là do chiến thuật sai lầm. Lúc đó, thiên hạ chưa an bài. Nếu ông ta có thể giữ vững vị trí ở những địa bàn chiến lược và dần dần phát triển thế lực, có lẽ đã không thua kém Lưu Tú."
Nhận Từ Châu năm 194 — Làm hỏng "kịch bản Lưu Bang"
Năm 194, Lưu Bị gặp được vận hội quý giá nhất đến: tiếp quản Từ Châu. Mục Từ Châu Đào Khiêm lâm chung dặn Mịch Trúc: "Chỉ có Lưu Bị mới có thể mang lại bình yên cho tỉnh này." Từ kẻ nương nhờ người khác, Lưu Bị nhảy vọt thành Châu mục quản lý vài quận.
Vào thời điểm này, Từ Châu tuy chưa hoàn toàn thống nhất nhưng vị trí địa lý vô cùng thuận lợi: đông giáp biển, nam tiếp Dương Châu, bắc liền Thanh Châu, tây nối Duyện Châu trở thành trung tâm giao thương giữa Trung Nguyên – Giang Đông. Việc Lưu Bị kiểm soát 3 quận Hạ Bì, Bành Thành, Quảng Lăng cộng với đồn trú ban đầu ở Tiểu Bái đã mang lại cho ông một địa bàn vượt xa Tào Tháo khi đó. Tào Tháo vừa gặp biến ở Duyện Châu, Lã Bố chiếm Bộc Dương, Tào Tháo chỉ giữ Nghiễn, Phạm, Đông A, tình thế vô cùng bấp bênh.

Việc Lưu Bị kiểm soát 3 quận Hạ Bì, Bành Thành, Quảng Lăng cộng với đồn trú ban đầu ở Tiểu Bái đã mang lại cho ông một địa bàn vượt xa Tào Tháo khi đó. (Ảnh: Sohu)
Càng trùng hợp hơn, Tiểu Bái của Lưu Bị chính là huyện Bái, quê hương của Hán Cao Tổ Lưu Bang. Lịch sử dường như tái diễn, cho Lưu Bị một xuất phát điểm giống với Lưu Bang là lấy huyện Bái (Tiểu Bái) làm gốc, chiếm Từ Châu, chinh phạt thiên hạ. Hơn nữa, điểm xuất phát của Lưu Bị cao hơn Lưu Bang bởi lúc đó Lưu Bang chỉ là Đình trưởng, bên cạnh chỉ có mấy người đồng hương; Lưu Bị đã có Quan Vũ, Trương Phi, lại được Mịch Trúc, Trần Đăng đều là những thế gia ở Từ Châu ủng hộ.
Song Lưu Bị lại phung phí lợi thế của mình bằng 2 sai lầm chết người. Thứ nhất là chứa chấp Lã Bố. Sau khi bị Tào Tháo đánh bại, Lưu Bị bất chấp Quan Vũ và Trương Phi phản đối, đã đưa Lã Bố đến Tiểu Bái, chẳng khác nào rước sói vào nhà.

Sau khi bị Tào Tháo đánh bại, Lưu Bị bất chấp Quan Vũ và Trương Phi phản đối, đã đưa Lã Bố đến Tiểu Bái, chẳng khác nào rước sói vào nhà. (Ảnh: Sohu)
Thứ hai, Lưu Bị đã lỡ thời cơ mở rộng. Hơn một năm sau tiếp quản, ông không thừa thế thống nhất phần còn lại của Từ Châu, lại sa vào giằng co với Viên Thuật, tạo kẽ hở cho Lã Bố.
Năm 195, Lưu Bị giao chiến Viên Thuật ở Nhu Dung, Lã Bố thừa cơ tập kích Hạ Bì, bắt sống vợ con và binh lính của Lưu Bị. Quay về cứu, Lưu Bị lại bại, buộc phải rút về Tiểu Bái, rốt cục mất Từ Châu. Trần Đăng từng khuyên Lưu Bị: "Nhà Hán đang suy tàn, đất nước loạn lạc. Hôm nay là lúc lập công lập nghiệp. Từ Châu trù phú, dân số một triệu người. Ta muốn giao phó cho ngươi cai quản châu này." Tuy nhiên, Lưu Bị đã không nắm bắt được cơ hội này và buộc phải tiếp tục lang bạt.
Giả như khi ấy Lưu Bị từ chối tiếp nhận Lã Bố, mà liên minh với Trần Đăng, trước tiên thống nhất Từ Châu, rồi lợi dụng mâu thuẫn Tào Tháo và Lã Bố để trục lợi. Lưu Bị có thể dùng Từ Châu làm gốc, tái hiện chiến lược "trước chiếm Quảng Đông, sau đó chinh phục Trung Nguyên" của Lưu Bang. Tuy nhiên, lòng trắc ẩn sai lầm và tầm nhìn chiến lược thiển cận của ông ta đã khiến cơ hội thứ hai này vuột mất.
Sau Hán Trung 219 — "Kịch bản Long Trung đối" vượt tầm kiểm soát
Năm 219, Lưu Bị đánh bại Tào Tháo tại núi Định Quân, chiếm Hán Trung, và lên ngôi Hán Trung Vương. Đây là đỉnh cao của Thục Hán: chiếm trọn Ích Châu, nắm ba quận nam của Kinh Châu (Nam, Linh, Vũ Lăng), binh lực cỡ mười vạn quân số. Dưới quyền chỉ huy có Gia Cát Lượng, Pháp Chính; Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Ngụy Diên. Thục Hán hoàn toàn có đủ khả năng tái tạo Đại Hán lần ba.
Theo Long Trung đối sách, lúc này phải "chiếm giữ các châu Kinh và Di, bảo vệ các cửa ải chiến lược, bình định các bộ tộc phía Tây là người Dung, xoa dịu các bộ tộc phía Nam là người Di và người Việt, liên minh với Tôn Quyền và củng cố quyền lực; nếu thiên hạ thay đổi, thì cử một vị tướng chỉ huy quân Kinh Châu tiến về Vạn và La, còn vị tướng này tự mình dẫn quân Ích Châu ra khỏi Tần Xuyên", tạo thành thế gọng kìm tấn công Tào Tháo từ cả hai phía.

Năm 219, Lưu Bị đánh bại Tào Tháo tại núi Định Quân, chiếm Hán Trung, và lên ngôi Hán Trung Vương. (Ảnh: Sohu)
Cục diện lúc bấy giờ cực kỳ thuận lợi cho Lưu Bị: Tào Tháo suy sụp tinh thần sau thất bại ở Hán Trung, đại quân rút về Quan Trung; bị kẹt trong thế giằng co với Tào Tháo ở Hợp Phì, không có thời gian nhìn về phía Tây; Quan Vũ đang củng cố lực lượng ở Kinh Châu, đủ sức tiến hành một cuộc viễn chinh phương Bắc. Nếu Lưu Bị có thể ổn định Kinh Châu, điều phối mối quan hệ giữa Quan Vũ và Đông Ngô, sau đó nghỉ ngơi dưỡng sức và chờ đợi những thay đổi trong chính quyền Tào Tháo, thì cuộc viễn chinh Trung Nguyên của ông ta có lẽ đã không phải là bất khả thi.
Nhưng Lưu Bị mắc hai sai lầm nghiêm trọng. Thứ nhất, phòng thủ Kinh Châu của ông không đủ vững chắc. Ông để Quan Vũ một mình trấn giữ Kinh Châu, không cử tướng giỏi đến hỗ trợ hoặc giải quyết xung đột với Đông Ngô, tạo cơ hội cho Lã Mông lợi dụng. Thứ hai, ông không kịp thời hỗ trợ Quan Vũ. Quan Vũ mở trận Tương Phàn, khiến bảy đạo quân tràn ngập, khiến Trung Nguyên rung chuyển dữ dội, nhưng Lưu Bị lại chịu tổn thất nặng nề sau trận Hán Trung, không thể gửi viện binh, khiến Quan Vũ bị cô lập và dễ bị tấn công.

Mùa đông 219, Lã Mông cải trang thành thường dân, vượt sông Dương Tử, bất ngờ tấn công Kinh Châu. Quan Vũ bị đánh bại và tử trận, Kinh Châu hoàn toàn thất thủ. Thất bại này không chỉ khiến Thục Hán mất đi một căn cứ chiến lược quan trọng mà còn phá vỡ thế gọng kìm được vạch ra trong "Kế hoạch Long Trung", hoàn toàn phá vỡ giấc mộng "ba lần dựng nhà Hán" của Lưu Bị. Nếu Pháp Chính còn sống, ông ta có thể đã khuyên Lưu Bị: "Kinh Châu rất quan trọng; phải phái một vị tướng tài giỏi đến giúp phòng thủ, kết liên minh với Tôn Quyền, chứ đừng hành quân bừa bãi." Tuy nhiên, Pháp Chính đã chết, và lời khuyên của Gia Cát Lượng không được nghe theo, cuối cùng dẫn đến thảm họa.
Sau khi mất Kinh Châu, Lưu Bị mở trận Di Lăng để trả thù, nhưng lại phải chịu một thất bại thảm hại. Thực lực Thục Hán suy yếu nghiêm trọng, từ đó trở đi, chỉ còn có thể duy trì ở Tây Nam, không còn sức tranh giành thiên hạ. Tư Mã Quang đã nhận xét trong Tư Trị Thông Giám: "Việc Lưu Bị mất Kinh Châu không phải do năng lực của Lã Mông, mà là do sự lơ là của chính ông ta. Ông ta có Kinh Châu và Di Châu nhưng không thể giữ được, và kế hoạch Long Trung của ông ta đã trở nên vô dụng."
Theo Sohu, Sina, 163