EU sắp áp một loại thuế mới, DN xuất khẩu Việt Nam đang ứng phó ra sao?

Từ ngày 1/1/2026, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu sẽ chính thức có hiệu lực đầy đủ.

“Bạn giảm phát thải như thế nào, nếu không giảm phát thải thì vui lòng nộp thuế ”, vấn đề đáng chú ý được các doanh nghiệp xuất khẩu, hiệp hội… bàn luận tại hội thảo ESG mới đây.

EU đang tiến hành kế hoạch để đạt được mục tiêu trở thành lục địa trung hòa khí carbon vào năm 2050. EU lo ngại về hiện tượng “rò rỉ carbon”, thông qua việc DN khối EU có thể chuyển lượng khí thải ra ngoài châu Âu và làm suy yếu nghiêm trọng tham vọng trung hòa khí hậu toàn cầu.

Để ngăn chặn nguy cơ này, EU đã phát triển Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) từ tháng 10/2023.

Từ ngày 1/1/2026, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu sẽ chính thức có hiệu lực đầy đủ. Các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là ngành sản xuất sẽ phải đối mặt với thách thức mới: hoặc giảm phát thải theo chuẩn xanh toàn cầu, hoặc chấp nhận trả thuế carbon nếu muốn tiếp cận các thị trường lớn như EU hay Hoa Kỳ.

Yêu cầu đề ra cho các DN xuất khẩu hiện nay là toàn bộ chuỗi cung ứng, từ nhập hàng đến phân phối đều phải tính đến yếu tố phát thải.

Các chuyên gia nhận định việc đáp ứng yêu cầu giảm phát thải hiện là áp lực lớn với nhiều DN, nhất là trong bối cảnh CBAM đang đến gần. Một dẫn chứng được đưa ra: “Một DN sản xuất gỗ đã bị nhà nhập khẩu châu Âu yêu cầu nộp báo cáo CBAM , nếu không có thì không xuất khẩu được”.

Thực tế, nhiều DN Việt, đặc biệt là các DN lớn đã sớm có lộ trình phát triển bền vững, từ việc đạt được các chứng nhận tiêu chuẩn bền vững, tạo môi trường làm việc hạnh phúc, bình đẳng giới… đến giảm chất thải công nghiệp.

DN Việt Nam đang “chuyển đổi xanh” ra sao?

Điểm qua một số câu chuyện bền vững hiện nay, các DN niêm yết từ lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng thương mại đến các đơn vị dẫn đầu ngành sản xuất gồm Vinamilk, Sợi Thế kỷ, Đạm Cà Mau, GC Food… đã có Báo cáo Phát triển bền vững thường niên, công bố cụ thể tỷ lệ % giảm chất thải trong quá trình hoạt động và hiệu quả kinh doanh đạt được.

Ảnh: Ma trận các chủ để trọng yếu trong Báo cáo phát triển bền vững của GC Food.

Đơn cử, trong báo cáo phát triển bền vững lần đầu công bố của GC Food ghi nhận: “ Áp dụng chiến lược phát triển bền vững, s ản lượng năm 2024 Công ty đã tăng trưởng 28.000 tấn sản phẩm - tăng hơn 27% so với năm 2023 .   GC Food cũng đã giảm tiêu thụ năng lượng trong sản xuất lên tới 12% ; tiết kiệm nước sạch đạt 15% , giảm thiểu phát thải khí nhà kính khoảng 8% và tối ưu hóa bao bì với hơn 60% sản phẩm sử dụng vật liệu tái chế hoặc dễ phân hủy sinh học, hướng tới mục tiêu giảm 20% lượng bao bì nhựa dùng một lần vào năm 2026 ”.

GC Food được mệnh danh là “vua nha đam” của Việt Nam. Ghi nhận tại Báo cáo phát triển bền vững mới công bố, năm 2024, Công ty đạt sản lượng nha đam 15.000 tấn và sản lượng thạch dừa đạt hơn 11.834 tấn. GC Food hiện xuất khẩu sang 22 quốc gia; trong đó hơn 80% sản lượng thạch dừa được dành riêng cho xuất khẩu, phục vụ các nhà mua hàng lớn tại châu Âu và 8% thị phần nha đam tại Hàn Quốc và 9% tại Nhật Bản.

Xuất khẩu sang 132 thị trường với rất nhiều các tiêu chuẩn, cái “khó nhất” của DN dệt may là tiêu chuẩn nước

Cũng hướng đến xuất khẩu là chính, thống kê từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết các DN Việt đã và đang đầu tư mạnh cho xanh hóa, tập trung vào các giải pháp như xử lý nước thải, tái chế chất thải và giảm thiểu khí thải.

“Ngành dệt may xuất khẩu vào 132 thị trường trên toàn cầu và mỗi thị trường đều đưa ra những tiêu chuẩn khác nhau. Trong đó, tiêu chuẩn nước là một trong những tiêu chuẩn bắt buộc, được kiểm soát rất chặt”, ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam – chia sẻ.

Ảnh: Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam.

Để giải quyết thách thức này, theo ông, các khu công nghiệp và DN bắt buộc đầu tư hạ tầng để thu gom nước mưa, nếu DN có chứng nhận từ địa phương về thu gom nước mưa, tiết kiệm nguồn nước thì đó là điểm cộng cho doanh nghiệp, nhãn hàng.

Ông cũng nhấn mạnh DN hiện không còn chờ áp lực từ Chính phủ. Bởi, khách hàng toàn cầu chính là áp lực lớn nhất. Nếu không đạt tiêu chuẩn, DN sẽ bị loại khỏi sân chơi.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, cả nước hiện có 94,1% khu công nghiệp đang hoạt động đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn. Tuy vậy ở cụm công nghiệp, con số này mới chỉ dừng lại ở mức 31,5%, một tỷ lệ còn khiêm tốn. Cùng với đó, công nghệ xử lý nước thải còn chưa đồng bộ, chi phí đầu tư và vận hành vẫn là rào cản lớn.

Một vấn đề khác liên quan đến bình đẳng giới, đặc biệt với ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày có tỷ lệ lao động nữ rất đông (70-80%) nhưng tỷ lệ nữ làm lãnh đạo chỉ khoảng 30%.

Cần nhấn mạnh, 1-2 năm trở lại đây, bình đẳng giới, môi trường làm việc “hạnh phúc” trở thành một trong số các tiêu chí bền vững được coi trọng hàng đầu bởi các đối tác châu Âu. Khối EU đã xây dựng các chiến lược, chính sách, khuôn khổ pháp lý và tổ chức để thúc đẩy bình đẳng giới, bao gồm cả việc lồng ghép giới vào các chính sách khác nhau.

Môi trường làm việc bình đẳng và hạnh phúc: Tăng 10 lần hiệu suất, "giữ chân" được GenZ

Ông Lê Quang Bình, Giám đốc của ECUE Việt Nam, đại diện GEARS@VIETNAM chia sẻ:  "Nghiên cứu cho thấy phụ nữ Việt Nam phải làm việc nhà nhiều hơn nam giới khoảng 3 tiếng/ngày. Điều này ảnh hưởng đến cơ hội, năng lượng và thời gian cống hiến cho công việc".

GEARS là sáng kiến của chính phủ Úc, được phát triển bởi Investing Woman (Đầu tư vào phụ nữ), nhằm hỗ trợ các DN phát triển bền vững, trong đó có yếu tố xã hội là bình đẳng giới nơi làm việc. Chương trình kết hợp với hai đối tác tại Việt Nam và ECUE và BSA.

Báo cáo từ GEARS@VIETNAM cho thấy: (i) DN có sự đa dạng về giới và môi trường dung hợp, hòa nhập thì hiệu quả công việc cao gấp 10 lần so với nơi không có, (ii) Mức độ sáng tạo của nhóm có thể cao gấp 9 lần, và khả năng phục vụ khách hàng tốt hơn 5 lần, (iii) DN có tỷ lệ đa dạng giới nằm trong top 25% dẫn đầu có thể có lợi nhuận cao hơn 15% so với mức trung bình của ngành.

Cũng liên quan đến môi trường làm việc, điều này theo ông Bình còn đặc biệt cần được quan tâm khi Gen Z đang là nhóm đối tượng lao động ngày càng chiếm đa số, và họ vô cùng quan tâm đến điều kiện môi trường làm việc. “Họ sẽ tìm một nơi làm việc không chỉ vì lương mà còn vì môi trường đó có dung hợp, tôn trọng nhân phẩm, và cho phép họ được là chính mình. Họ có một hệ giá trị rất mạnh ”, ông nói thêm.

Một ví dụ ở Thái Lan, 75% người lao động nói rằng họ có thể nghỉ việc nếu môi trường làm việc không tôn trọng và dung hợp. Do đó, nếu môi trường không tôn trọng thì rất khó tuyển được người tài năng, đặc biệt là người trẻ.

Nhìn chung, hiện nhiều DN Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đến cải thiện môi trường làm việc, đặc biệt là bình đẳng giới, phát huy năng lực của lãnh đạo nữ.