‘Kinh tế quá khó khăn’: Lời than trời của doanh nghiệp 78 năm tuổi vừa xin phá sản, nợ đến 1,2 tỷ USD, ảnh hưởng đến hơn 465.000 lao động

Trong năm tài khóa 2024, Mỹ đã có 22.762 vụ phá sản, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước.

Năm 2024–2025 đánh dấu một "cơn sóng" phá sản chưa từng có trong nhiều năm trở lại đây, khi các doanh nghiệp lớn trong ngành bán lẻ, sản xuất và dịch vụ liên tục đệ đơn bảo hộ phá sản (Chapter 11) để tái cấu trúc nợ hoặc đóng cửa hoàn toàn.

Hãng tin Reuters cho hay số vụ phá sản doanh nghiệp tại Mỹ trong năm 2024 đã tăng 33,5% so với năm trước lên 22.762 vụ, mức cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008–2009. Điều này phản ánh áp lực kép từ lãi suất tăng cao, lạm phát dai dẳng và thay đổi mạnh mẽ trong hành vi tiêu dùng hậu COVID-19.

Khó khăn

"Trong những năm gần đây, vị thế tài chính của công ty đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi môi trường vĩ mô khó khăn. Vì vậy, chúng tôi đã xem xét nhiều lựa chọn chiến lược và xác định đây là con đường tốt nhất…", CEO Laurie Ann Goldman của Tupperware Brands Corporation thừa nhận.

Ngày 17/9/2024, Tupperware Brands Corporation chính thức nộp đơn bảo hộ tại Delaware, với khoản nợ lên tới 1,2 tỷ USD, gây ảnh hưởng đến 5.450 nhân viên ở 41 quốc gia và hơn 465.000 tư vấn viên độc lập ở gần 70 quốc gia.

Công ty 78 năm tuổi, từng nổi tiếng với mô hình "Tupperware party" này đã không bắt kịp xu hướng thương mại điện tử, trong khi chi phí nguyên liệu, nhân công và vận chuyển liên tục leo thang. Hậu quả là dù có 1,1 tỷ USD doanh thu năm 2023 với 679,5 triệu USD tài sản nhưng hãng vẫn phải nộp đơn phá sản.

Từ năm 2022 đến nay, doanh thu của Tupperware giảm hơn 16% mỗi năm, buộc hãng phải đóng cửa cơ sở sản xuất cuối cùng tại South Carolina và sa thải gần 150 công nhân. Bằng cách xin tòa cho phép thanh toán lương và tạm thời duy trì hoạt động, Tupperware hy vọng tìm được nhà đầu tư hay người mua thương hiệu để cứu vãn tình hình.

Trên thực tế, câu chuyện của Tupperware chỉ là một trong vô số doanh nghiệp phá sản thời gian gần đây do tình hình kinh tế khó khăn. Dẫu biết việc phá sản là chuyện thường khi kinh doanh nhưng số lượng đóng cửa tăng cao đột biến cho thấy một khung cảnh u ám của thị trường.

Đồng cảnh ngộ với Tupperware, vào tháng 12/2024, Party City, chuỗi bán đồ trang trí tiệc lớn nhất Hoa Kỳ, lần thứ hai trong hai năm đệ đơn bảo hộ phá sản và thông báo sẽ đóng cửa toàn bộ 700 cửa hàng, gây ảnh hưởng đến 12.000 nhân viên và gánh khoản nợ 800 triệu USD.

Công ty cho biết áp lực lạm phát, chi phí tăng vọt và cạnh tranh mạnh từ Walmart, Target đã khiến nỗ lực tái cấu trúc trước đó không đủ để duy trì hoạt động.

Party City đã đấu giá hợp đồng thuê mặt bằng tại 700 điểm và bán tài sản sở hữu trí tuệ cho đối tác mới với hy vọng thu về vốn để trả nợ.

Một trường hợp khác là Joann Fabrics Inc, nhà bán lẻ vải và đồ thủ công 82 năm tuổi, đã nộp đơn bảo hộ phá sản lần thứ 2 trong vòng 1 năm vào ngày 15/1/2025 với khoản nợ 615,7 triệu USD và 538,3 triệu USD hàng tồn kho.

Mặc dù công ty đã cố gắng tái cấu trúc nợ nhưng việc thiếu hụt nguồn cung và nhu cầu tiêu dùng giảm khiến cố gắng giữ công ty hoạt động trở nên vô nghĩa.

"Những năm vừa qua có quá nhiều thách thức to lớn trong ngành bán lẻ, với vị thế tài chính và tồn kho hạn chế của chúng tôi thì công ty phải thực hiện bước đi này", Quyền CEO tạm thời Michael Prendergast cho biết.

Sau khi đấu giá, tập đoàn GA Group cùng các chủ nợ trở thành bên mua chính, và Joann bắt đầu đóng cửa hơn nửa số cửa hàng còn lại, chính thức kết thúc hành trình của thương hiệu lâu đời này.

Trước đó, tháng 8 năm 2024, LL Flooring (một cổ phiếu lớn trên sàn NYSE) cũng đã nộp đơn bảo hộ phá sản, lên kế hoạch đóng 94/400 cửa hàng và tái cấu trúc dần để trả nợ. Thế nhưng cuối cùng hãng cũng phá sản hoàn toàn và đóng cửa 200 cửa hàng còn lại vào đầu tháng 9/2024, khiến gần 2.000 lao động mất việc. Khó khăn bắt nguồn từ thị trường bất động sản ảm đạm và chi phí lãi vay cao

Những câu chuyện của Tupperware, Party City, Joann và LL Flooring chỉ là phần nổi của tảng băng chìm trong làn sóng phá sản doanh nghiệp toàn cầu. Khi lãi suất cao, lạm phát kéo dài và hành vi tiêu dùng thay đổi nhanh chóng, các doanh nghiệp truyền thống thiếu khả năng đổi mới công nghệ và quản trị tài chính chặt chẽ sẽ phải đối mặt với nguy cơ túng quẫn.

Dừng bước

Trong bối cảnh lạm phát kéo dài, chi phí vận hành tăng cao và thay đổi trong hành vi tiêu dùng (ưu tiên kênh trực tuyến, tiết kiệm chi tiêu…), nhiều doanh nghiệp truyền thống gặp khó khăn nghiêm trọng.

Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh xu hướng số hóa và khiến các chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, dẫn đến áp lực thanh khoản lớn hơn cho các công ty vừa và nhỏ cũng như những tập đoàn lâu đời.

Đồng thời, thị trường vốn vào năm 2024–2025 co hẹp, hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp, khiến không ít tên tuổi lớn từng phát triển mạnh thì nay phải lựa chọn con đường phá sản hoặc tái cấu trúc nợ.

Bên cạnh những tên tuổi được nhắc đến ở trên là nhiều thương hiệu có tiếng tăm khác tại Mỹ cũng phải nộp đơn bảo hộ phá sản thời gian gần đây.

Tháng 5/2024, chuỗi nhà hàng hải sản Red Lobster đã phải nộp đơn bảo hộ phá sản và đóng cửa hơn 100 chi nhánh.

Tháng 9/2024, chuỗi bán lẻ Big Lots đã nộp đơn bảo hộ phá sản sau khi thỏa thuận bán mình cho quỹ đầu tư đổ bể, qua đó phải đóng của gần 1.000 cửa hàng còn lại trong năm 2025.

Tháng 10/2024, thương hiệu phần cứng 75 năm tuổi True Value nộp đơn phá sản và bán nhiều hoạt động cốt lõi cho đối thủ. Nguyên nhân chính là do người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu.

Không dừng lại ở các tên tuổi lớn, hàng loạt những startup như Arrival, Cazoo tại Anh, Cake và Northvolt của Thụy Điển, Infarm và Lilium của Đức, Cubyn của Pháp...cũng đều đóng cửa hay phá sản vì kinh tế khó khăn dù từng huy động được lượng lớn tiền từ nhà đầu tư.

Đặc biệt trường hợp của Northvolt là đáng tiếc nhất khi hãng sản xuất pin xe điện này được kỳ vọng là niềm hy vọng của Phương Tây đối trọng lại Trung Quốc, nhưng dù đã huy động được hơn 13 tỷ USD và có hợp đồng với BMW thì startup này cũng thất bại.

Rõ ràng, số lượng doanh nghiệp phá sản tăng cao đang phản ánh cả áp lực ngành hàng, sự thay đổi kỳ vọng của người tiêu dùng và áp lực cạnh tranh khốc liệt trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu phục hồi sau đại dịch.

*Nguồn: Reuters, Fortune, BI