Việt Nam cần sớm tự chủ các sản phẩm chip trọng yếu

Các chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh xuất hiện cuộc đua quyết liệt giữa các cường quốc về công nghệ bán dẫn, Việt Nam cần sớm xây dựng danh mục sản phẩm chip trọng yếu để đầu tư phát triển, tập trung vào các sản phẩm phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Chiều 22/8 diễn ra Hội thảo khoa học “Đảm bảo an ninh và tự chủ công nghệ sản xuất chip của Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia” do ĐHQG Hà Nội phối hợp cùng CT Group tổ chức.

Theo PGS. TS Thái Truyển Đại Chấn, thành viên Hội đồng khoa học CT Group, trong kỷ nguyên số, công nghệ bán dẫn đã trở thành nền tảng của mọi ngành công nghiệp.

Nếu dầu mỏ từng được ví như “máu” của nền kinh tế thế kỷ 20, thì ngày nay vi mạch đóng vai trò như “bộ não” của thế giới. Từ điện thoại, máy tính, xe điện, đến trí tuệ nhân tạo AI, mạng 5G/6G và quốc phòng, tất cả đều phụ thuộc vào những mạch tích hợp siêu nhỏ nhưng có sức mạnh khổng lồ.

Chính vì vậy, “chip war” – cuộc cạnh tranh kiểm soát công nghệ bán dẫn đã trở thành một trong những cuộc đua quyết liệt nhất giữa các cường quốc.

PGS Chấn cho hay, Mỹ hiện giữ ưu thế ở khâu thiết kế và phần mềm chuyên dụng, Đài Loan (TSMC) và Hàn Quốc (Samsung) dẫn đầu trong chế tạo vi mạch tiên tiến trong khi Trung Quốc đầu tư hàng trăm tỷ USD để thoát khỏi sự lệ thuộc vào phương Tây.

“Cuộc đua này không chỉ là vấn đề thương mại mà còn là cuộc chiến địa chính trị, bởi ai kiểm soát bán dẫn sẽ kiểm soát phần lớn sức mạnh công nghệ trong tương lai. Nếu một quốc gia không làm chủ được mạch tích hợp, rủi ro sẽ vô cùng lớn”, PGS. TS Thái Truyển Đại Chấn nhấn mạnh.

Ông cho rằng, với Việt Nam, việc tự chủ chip cần một lộ trình thực tế và có chọn lọc. “Chúng ta khó cạnh tranh trực tiếp ở phân khúc bán dẫn siêu tiên tiến đòi hỏi vốn đầu tư hàng chục tỷ USD và nền tảng công nghệ nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, có thể tập trung vào những mảng thiết thực, gắn liền với nhu cầu trong nước” ông Chấn nói.

Cụ thể, Việt Nam có thể tập trung vào vi mạch công suất thấp và trung bình cho IoT, cảm biến, thiết bị thông minh và hạ tầng 6G – lĩnh vực có thị trường rộng và phù hợp năng lực hiện tại. Bên cạnh đó là mạch bảo mật, phục vụ chính phủ điện tử, quốc phòng, UAV và định danh thông minh – nơi Việt Nam có thế mạnh nhờ nghiên cứu an ninh mạng.

Cùng đó là mạch chuyên dụng (ASIC/FPGA) cho giao thông thông minh, AI tại biên và ứng dụng quốc phòng. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể tập trung vào vi mạch năng lượng và xe điện, như bộ quản lý pin, điều khiển động cơ, chuyển đổi năng lượng, phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp xanh.

“Chip và công nghệ bán dẫn ngày nay không chỉ là sản phẩm công nghệ mà là yếu tố cấu thành chủ quyền quốc gia. Một nước không làm chủ được mạch tích hợp sẽ đối diện với rủi ro bị động, tụt hậu và phụ thuộc. Việt Nam, với chiến lược tập trung và đầu tư dài hạn, hoàn toàn có thể tự chủ ở những phân khúc trọng yếu, qua đó đảm bảo an ninh công nghệ và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu”, PGS. TS Thái Truyển Đại Chấn nhận định.

Các chuyên gia chia sẻ tại Toạ đàm, hoạt động trong khuôn khổ Hội thảo.

Theo ông Trần Kim Chung, Chủ tịch Hội đồng quản trị CT Group, hiện nay Việt Nam vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào chip nước ngoài, đồng nghĩa với nguy cơ gián đoạn bất cứ lúc nào, thất thoát dữ liệu quốc gia và thiếu chủ động trong các tình huống khẩn cấp.

Vì vậy, Việt Nam cần làm chủ công nghệ lõi, từ thiết kế, sản xuất đến thương mại hóa chip bán dẫn; tiếp đến là tạo ra những sản phẩm “Made by Vietnam” phục vụ cả dân sinh, quốc phòng – an ninh và có khả năng cạnh tranh bình đẳng trên thị trường quốc tế.

Ông Chung cho hay, hiện, Việt Nam cần phát triển khoảng dưới 10 loại chip thiết yếu, nhưng đây là nhiệm vụ đầy thách thức. Để thiết kế một con chip thông thường đã mất khoảng 2 năm, sau đó còn trải qua quy trình quang khắc (nếu có đối tác như TSMC chấp nhận gia công, cũng mất thêm 3-4 tháng), rồi tiếp tục đóng gói và kiểm thử. Như vậy, phải mất hơn 2 năm mới có thể hoàn thiện một sản phẩm. Nếu bắt tay đồng loạt vào tất cả các loại chip cần thiết ngay từ bây giờ, sớm nhất cũng phải đến năm 2027 chúng ta mới có kết quả.

“Trong khi đó, tiến trình chuyển đổi số trong nước đang diễn ra rất nhanh, nên tiết kiệm được giờ nào quý giá giờ đó. Vì vậy, các cơ quan như Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cần sớm thống nhất và kiến nghị Chính phủ chốt danh mục những loại chip trọng yếu sẽ tập trung phát triển. Trên thực tế, các quốc gia có điều kiện cũng không có lựa chọn nào khác ngoài việc tự chủ về chip”, Chủ tịch Hội đồng quản trị CT Group đề xuất.

Xây dựng đội ngũ nhân lực “tinh hoa”

Theo PGS.TS Phạm Bảo Sơn, Phó Giám đốc ĐHQG Hà Nội, đơn vị này đã chủ động triển khai từ sớm nhiều chương trình, giải pháp đột phá phát triển nhân lực khoa học công nghệ, góp phát phát triển công nghệ lõi quốc gia.

Mới đây, ĐHQG Hà Nội đã thành lập Công viên Công nghệ cao và Đổi mới sáng tạo tại Hòa Lạc, thành lập 3 viện nghiên cứu chiến lược trong các lĩnh vực công nghệ bán dẫn, công nghệ lượng tử và trí tuệ nhân tạo ứng dụng - ba lĩnh vực chiến lược của đất nước.

Hiện, ĐHQG Hà Nội cũng đang chủ trì xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về lĩnh vực vi mạch bán dẫn.

Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần sớm tự chủ các sản phẩm chip thiết yếu.

Theo PGS.TS Mai Anh Tuấn, Trường ĐH Công nghệ – ĐHQG Hà Nội, để “giữ chân” các nhà đầu tư lĩnh vực công nghệ bán dẫn, Việt Nam cần hành động đồng bộ trên nhiều phương diện. Trước hết, phải nâng tầm nguồn nhân lực, từ lợi thế “dồi dào” tiến tới xây dựng đội ngũ “tinh hoa”.

Điều này đòi hỏi các trường đại học hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp trong việc tùy biến chương trình đào tạo sát với nhu cầu thực tế, như kỹ sư thiết kế vi mạch, kỹ sư quy trình hay kỹ sư kiểm thử.

Cùng với đó là xây dựng chính sách hấp dẫn nhằm thu hút chuyên gia, kỹ sư người Việt ở nước ngoài, đặc biệt từ Thung lũng Silicon, trở về giảng dạy, nghiên cứu và dẫn dắt.

Song song với nguồn nhân lực, PGS.TS Mai Anh Tuấn cho rằng, Việt Nam cần phát triển hệ sinh thái hỗ trợ bằng cách có chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút công nghiệp phụ trợ như sản xuất vật liệu, khuôn đỡ IC, hóa chất, khí công nghiệp.

Một yếu tố then chốt khác là đảm bảo hạ tầng cốt lõi tuyệt đối ổn định. Trong đó, cần có kế hoạch cung cấp điện 24/7 cho các khu công nghệ cao, đồng thời cam kết phát triển sản xuất xanh dựa trên năng lượng tái tạo.

Cuối cùng, theo PGS.TS Mai Anh Tuấn, sự nhất quán về chính sách và thủ tục hành chính tinh gọn sẽ quyết định mức độ yên tâm của doanh nghiệp.

“Các ưu đãi về thuế, đất đai phải được duy trì ổn định trong dài hạn, đi kèm cải cách thủ tục hành chính mạnh mẽ nhằm loại bỏ rào cản quan liêu, rút ngắn tối đa khoảng cách từ khi quyết định đầu tư đến lúc nhà máy đi vào vận hành”, PGS Tuấn nói.