Ảnh minh họa
Theo Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index – GII) mới nhất do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công bố, phạm vi khảo sát mở rộng từ 133 lên 139 quốc gia và vùng lãnh thổ.
GII là một bộ công cụ đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia có uy tín trên thế giới, phản ánh mô hình phát triển kinh tế - xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của các quốc gia. Qua đó, các quốc gia thấy được bức tranh tổng thể cũng như các điểm mạnh, điểm yếu của mình.
Theo Báo cáo GII 2025, Việt Nam được xếp hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, duy trì thứ hạng năm 2024. Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 3 bậc so với năm 2023, từ vị trí 53 lên 50 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển của doanh nghiệp).
Đầu ra đổi mới sáng tạo vẫn có thứ hạng tốt hơn Đầu vào đổi mới sáng tạo dù thứ hạng giảm 1 bậc so với 2024, từ vị trí 36 xuống 37 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, Sản phẩm sáng tạo).
Việt Nam duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Quốc gia thu nhập trung bình thấp xếp trên Việt Nam là Ấn Độ với thứ hạng 38.
Ngoài ra, có 3 quốc gia có thu nhập trung bình cao xếp trên Việt Nam là: Trung Quốc xếp hạng 10, Malaysia xếp hạng 34, Thổ Nhĩ Kỳ xếp hạng 43, còn lại tất cả các quốc gia xếp trên Việt Nam đều là các quốc gia có nền công nghiệp phát triển, thuộc nhóm thu nhập cao, tỉ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển/GDP cao. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam vượt lên trên Thái Lan, đứng thứ 3 sau Singapore và Malaysia.
Báo cáo GII 2025 cũng ghi nhận Việt Nam là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất tính từ năm 2013 (gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Iran, Morocco, Albania và Thổ Nhĩ Kỳ). Việt Nam cũng là một trong 2 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 15 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ và Việt Nam).
Trong 15 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả đổi mới sáng tạo cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo. Việt Nam là một trong ba quốc gia (Trung Quốc, Việt Nam, Ethiopia) có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động nhanh nhất trong giai đoạn 2014-2024.
Đặc biệt, trong các chỉ số thành phần, Việt Nam xếp số một thế giới cùng Malaysia và Philippines về xuất khẩu công nghệ cao, chiếm 36,1% tổng thương mại. Trong khi đó, Singapore (chiếm 25,9%, xếp thứ 4 thế giới), Trung Quốc (chiếm 23,9%, xếp thứ 5 thế giới), Đức (chiếm 13,6%, xếp thứ 12 thế giới), Mỹ (chiếm 10%, xếp thứ 19 thế giới)… đều xếp sau Việt Nam.
Báo cáo cho biết, trong khối ASEAN, từ năm 2000 đến 2023, chi tiêu cho R&D của ASEAN tăng với tốc độ lên tới 8,5%, đạt gần 60 tỷ USD. Xuất khẩu công nghệ cao của ASEAN tăng hơn gấp đôi từ 2015 đến 2022, với mức tăng 9,7% mỗi năm, và giá trị thương hiệu toàn cầu đạt 7% GDP khu vực vào năm 2023 – cho thấy khu vực tư nhân ngày càng phát triển hơn. Đặc biệt, vốn đầu tư mạo hiểm nhận được tăng 134% vào năm 2021 cũng phản ánh hệ sinh thái khởi nghiệp của ASEAN đang mở rộng.
Ở cấp độ từng nền kinh tế, các chỉ số chủ chốt – xuất khẩu công nghệ cao, sản xuất công nghệ cao, bằng sáng chế, và các bài báo khoa học – kỹ thuật – cho thấy khoảng cách giữa các nước ASEAN và nhóm dẫn đầu đổi mới toàn cầu đang thu hẹp lại. Trong đó, Việt Nam ghi nhận tiến bộ nhanh, đặc biệt ở xuất khẩu công nghệ cao, sản xuất công nghệ cao và công bố khoa học. Philippines tiến bộ trong bằng sáng chế và sản lượng khoa học, trong khi Singapore tiếp tục vững mạnh ở sản xuất công nghệ cao.
Báo cáo cũng cho biết, các nền kinh tế tham gia đổi mới theo nhiều cách đa dạng. Có nước tận dụng thế mạnh sản xuất công nghệ cao hoặc dịch vụ số, có nước khai thác ngành công nghiệp sáng tạo, liên kết tài nguyên tự nhiên hoặc động lực thị trường khu vực. Sự đa dạng này cho thấy không có con đường duy nhất dẫn đến thành công đổi mới. Thay vào đó, mỗi quốc gia đang tìm cách điều chỉnh mô hình đổi mới phù hợp với cấu trúc kinh tế và năng lực riêng.
Bắc Mỹ và châu Âu vẫn là hai khu vực đổi mới mạnh nhất toàn cầu nhờ hệ sinh thái nghiên cứu, vốn đầu tư mạo hiểm và kết quả khoa học có tác động cao. Hành trình ấn tượng của Trung Quốc để lọt top 10 phản ánh đầu tư R&D bền bỉ và vị thế công nghệ. Ấn Độ củng cố vai trò thông qua xuất khẩu dịch vụ CNTT mạnh, năng động khởi nghiệp và cơ sở R&D trong nước lớn.
Đặc biệt, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam và Thái Lan – dù gặp khó khăn trong năm 2025 – vẫn tiến gần hơn nhóm 40 nước dẫn đầu nhờ thế mạnh về thương mại, nền công nghiệp và sản xuất công nghệ cao. Philippines thăng hạng nhờ dẫn đầu toàn cầu về xuất khẩu công nghệ cao và dịch vụ CNTT.